Bình Định Kết Nối Tâm Hồn Việt Le Cuoi Tran Dinh Can _Ngo Thi Trung Trinh |
|
| Điều kiện tự nhiên | |
| | Tác giả | Thông điệp |
---|
Tran Dinh Can Admin
Tổng số bài gửi : 235 Points : 632 Join date : 18/10/2010 Đến từ : BinhDinh
| Tiêu đề: Điều kiện tự nhiên Wed 27 Oct - 7:10:46 | |
| Vị trí địa lý Bình Định là tỉnh duyên hải Nam Trung bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi, phía Nam giáp tỉnh Phú Yên, phía Tây giáp tỉnh Gia Lai và phía Đông giáp biển Đông. Cách Hà Nội 1.065 km về phía Nam, cách thành phố Hồ Chí Minh 649 km về phía Bắc. Diện tích và dân số Bình Định có diện tích tự nhiên 6.025,1 km2, dân số 1.545.300 người, mật độ dân số 256 người/km2 (số liệu năm 2004). Bình Định có 11 đơn vị hành chính: thành phố Quy Nhơn là tỉnh lỵ, đô thị loại 2 và 10 huyện gồm An Lão, Vĩnh Thạnh, Vân Canh (miền núi), Tây Sơn, Hoài Ân (trung du), Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước (đồng bằng). Toàn tỉnh có 157 xã, phường, thị trấn. Tài nguyên thiên nhiên Bình Định có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa thích hợp cho phát triển cây trồng nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình năm 26 - 280C. Lượng mưa trung bình 1700 - 1800 mm. Có các sông lớn như sông Kôn, Lại Giang, La Tinh, Hà Thanh cùng hệ thống sông suối thuận lợi cho phát triển thủy lợi, thủy điện và cung cấp nước sinh hoạt. Có 11 nhóm đất với 30 loại đất khác nhau, trong đó đất phù sa chiếm 71.000 ha. Hiện có gần 117.000 ha đất nông nghiệp, 202.700 ha đất lâm nghiệp có rừng, trong đó có 154.400 ha rừng tự nhiên, gần 200.000 ha đất chưa sử dụng có thể khai thác phát triển nông lâm nghiệp. Bình Định có bờ biển dài 134 km, có 3 cửa lạch lớn Quy Nhơn, Đề Gi, Tam Quan, có đầm Thị Nại và các đầm khác, nhiều loại thuỷ hải sản quý thuận lợi cho phát triển đánh bắt, nuôi trồng thủy sản. Bình Định không giàu về tài nguyên khoáng sản nhưng có một số khoáng sản có giá trị như đá xây dựng, quặng titan, nước suối khoáng, cao lin, cát trắng Bản đồ hành chính tỉnh Bình Định | |
| | | Tran Dinh Can Admin
Tổng số bài gửi : 235 Points : 632 Join date : 18/10/2010 Đến từ : BinhDinh
| Tiêu đề: Lịch sử Bình Định Wed 27 Oct - 7:12:39 | |
| Lịch sử Biểu diễn trống trận Quang Trung Bình Định có một vai trò chiến lược hết sức quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của vùng trọng điểm kinh tế miền Trung, Tây Nguyên và các tỉnh cực Nam Trung Bộ. Hệ thống đường Quốc lộ 1 A và đường sắt xuyên Việt cùng với đường 19 lên Tây Nguyên và cảng biển nước sâu Quy Nhơn-Nhơn Hội đã trở thành huyết mạch cho sự phát triển kinh tế-xã hội của Bình Định, miền Trung và Tây Nguyên cũng như khu vực tiểu vùng sông Mê Công bởi trục đường hành lang Đông-Tây: Quy Nhơn-KonTum-ApToPư-Pắc Xế- (Lào)Ubon Rat cha Thani (Thái Lan) . Cho đến nay, thông qua các đợt khai quật khảo cổ học người ta đã xác định được rằng cách đây trên 2000 năm trên vùng đất Bình Định ngày nay đã có cư dân văn hoá Sa Huỳnh sinh sống. Từ đầu Công nguyên (năm 192) trên dải đất miền Trung Việt Nam đã hình thành một nhà nước cổ đại, đó là nhà nước Chăm-pa. Nhà nước Chăm-pa được xây dựng trên một nền tảng văn hoá hết sức rực rỡ, nó kế thừa những thành tựu của nền văn hoá Sa Huỳnh trước đó, đồng thời tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ, Trung Hoa cùng nhiều yếu tố của các nền văn hoá khác trong khu vực. Nhà nước Chăm-pa với sự khởi nguồn từ năm 192 đã kết thúc vai trò lịch sử riêng của mình vào nửa cuối Thế kỷ XVII, chấm dứt sự tồn tại đầy oanh liệt của mình trong suốt 16 thế kỷ. Bình Định là vùng đất trung tâm của miền Trung Việt Nam với gần 5 thế kỷ giữ vai trò trung tâm của nhà nước Chăm-pa, mặc dù có nhiều bước thăng trầm, chiến tranh xảy ra liên miên, nhưng văn hóa Chăm-pa ở đây vẫn phát triển đến khi nhà nước Chămpa mất vai trò lịch sử . Dấu tích văn hoá của thời kỳ nhà nước Chăm-pa tồn tại trên đất Bình Định còn để lại vô cùng phong phú, đa dạng về loại hình, nhiều về số lượng và trở thành đối tượng quan trọng trong việc tiếp tục nghiên cứu khảo cổ về Bình Định. Năm 1470, vào thời cực thịnh của nhà Lê, vua Lê Thánh Tông chỉ huy đánh chiếm kinh thành Viaja (thành Đồ Bàn) bắt vua Chiêm là Trà Toàn và hơn 3 vạn người làm tù binh. Ngày 1 tháng 3 năm Hồng Đức thứ 2 (1471), nước Đại việt mở đất đến núi Thạch Bi. Tháng 7 năm 1471, vua Lê cho lập phủ Hoài Nhơn gồm 3 huyện là: Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. Từ đó người Việt bắt đầu tiến vào sinh sống trên vùng đất Bình Định ngày nay. Năm 1490 (chưa đầy 20 năm sau), theo Thiên nam dư hạ tập cho biết: dưới thời Hồng Đức, Phủ Hoài Nhơn có 19 tổng và 100 xã. Năm 1570, Nguyễn Hoàng, người được vua Lê cử trấn nhậm hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam lúc bấy giờ có cả phủ Hoài Nhơn. Năm 1578, Nguyễn Hoàng cử lương Văn Chính vào làm tri huyện Tuy Viễn để lo trị an, giữ yên biên giới phía Nam và chuẩn bị đưa quân, dân vào sinh sống, lập làng phía Nam đèo Cù Mông - Phủ Hoài Nhơn trở thành bàn đạp cho cuộc tiến công mở đất vào Phú Yên. Năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng cho đổi phủ Hoài Nhơn thành phủ Quy Nhơn . Năm 1651, dưới thời Nguyễn Phúc Tần, chúa cho đổi phủ Hoài Nhơn làm phủ Quy Ninh. Năm 1702, chúa Nguyễn Phúc Khoát cho lấy lại tên cũ là Quy Nhơn và vẫn được gọi suốt thời kỳ Tây Sơn. Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát đặt các đạo làm dinh, nhưng cấp phủ vẫn giữ nguyên. Phủ Quy Nhơn vẫn thuộc về dinh Quảng Nam, đặt các chức tuần phủ và khám lý để cai trị. Phủ lỵ được dời ra phía Bắc thành Đồ Bàn, đóng tại thôn Châu Thành (nay thuộc xã Nhơn Thành, An Nhơn). Bảo tàng Quang Trung tại huyện Tây Sơn Từ thời các chúa Nguyễn, ở Đàng Trong nói chung, Bình Định nói riêng đã có sự phân hóa giàu nghèo, địa vị khác nhau của các tầng lớp trong xã hội. Đặc biệt vào đầu thế kỷ XVII, vấn đề trên càng trở nên mâu thuẫn sâu sắc. Cho đến trước cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn 1771, ở Bình Định đã nổ ra nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân, trong đó tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Chàng Lía: cướp của nhà giàu, chia cho dân nghèo, trừng phạt quan lại hống hách bức hiếp dân. Nhưng tồn tại chẳng được bao lâu, cuộc khởi nghĩa của Lía bị thất bại Năm 1773 cuộc khởi nghĩa nông dân của ba anh em nhà Tây Sơn do Nguyễn Nhạc đứng đầu đã phát triển xuống Tây Sơn Hạ đạo, chiếm lĩnh ấp Kiên Thành (nay là Kiên Mỹ) nơi đã từng sinh ra các thủ lĩnh Tây Sơn, Nguyễn Nhạc tự xưng là đệ nhất trại chủ cai quản hai huyện là Phù Ly và Bồng Sơn. Cùng trong năm đó (1773), nghĩa quân Tây Sơn tiếp tục đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn. Tháng 3 năm 1776, Nguyễn Nhạc cho sửa chữa và xây thêm thành Đồ Bàn, rồi đổi tên ra thành Hoàng đế, tự xưng Tây Sơn vương, cho đúc ấn vàng, phong cho Nguyễn Lữ làm Thiếu phó, Nguyễn Huệ làm Phụ chính, các tướng lĩnh khác đều được phong chức cho tương xứng với một chính quyền Trung ương mới được thành lập.Năm 1793, sau khi vua Quang Trung chết, Nguyễn Ánh đem quân đánh thành Hoàng Đế. Nguyễn Nhạc bị bệnh sai con là Nguyễn Bảo chỉ huy kháng cự, quân của Nguyễn Bảo bị thua, bỏ Tượng đài vua Quang Trung tại Quy Nhơn chạy.Vua Quang Toản sai Thái uý Phạm Công Hưng, hộ giá Nguyễn văn Huấn, Đại tư lệ Lê Trung, Đại tư mã Ngô văn Sở cùng tướng thuỷ quân là Đặng Văn Chân từ Phú Xuân vào cứu viện, đánh quân Nguyễn Ánh. Quân Nguyễn Ánh thua chạy. Quân Quang Toản vào thành, Nguyễn Nhạc mang vàng bạc ra khao quân. Phạm Công Hưng và các tướng lĩnh ra lệnh tịch thu châu báu và binh giáp các kho rồi chiếm thành. Nguyễn Nhạc phẩn uất hộc máu chết. Từ năm 1793-1799, thành Hoàng Đế đổi thành phủ Quy Nhơn dưới vương triều Cảnh Thịnh, cũng là bước đường suy yếu của Tây Sơn. Từ năm 1799 -1802 thành Quy Nhơn bị quân Nguyễn Ánh chiếm đóng và đổi làm thành Bình Định và suốt chiều dài lịch sử, đây là trung tâm cai trị của triều Nguyễn tại Bình Định trong những năm đầu thế kỷ XIX. Đến năm 1885 Bình Định là một tỉnh lớn ở Trung Kỳ, nhiều vùng đất của Gia Lai, Kon Tum còn thuộc về Bình Định . Năm 1890 thực dân Pháp sát nhập thêm Phú Yên vào Bình Định thành tỉnh Bình Phú, tỉnh lỵ là Quy Nhơn. Nhưng đến năm 1899, Phú Yên tách khỏi Bình Phú, Bình Định lại trở thành tỉnh độc lập. Năm 1907 toàn quyền Đông Dương lại ra Nghị Định bãi bỏ tỉnh Plâycu Đe. Một nửa đất đai của tỉnh này cho sát nhập trở lại vào tỉnh Bình Định. Năm 1913 thực dân pháp lại sát nhập Phú Yên vào tỉnh Bình Định thành tỉnh Bình Phú. Năm 1921 thực dân pháp tách tỉnh Phú Yên ra, lập lại tỉnh Bình Định và kéo dài cho đến năm 1945. Cùng với cuộc cách mạng tháng Tám long trời, lỡ đất, ngày 3/9/1945, sau khi khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi UBND cách mạng lâm thời mới của tỉnh lấy tên tỉnh Bình Định là tỉnhTăng Bạt Hổ. Tuy nhiên tỉnh Tăng Bạt Hổ thay cho tỉnh Bình Định chưa được Trung ương công nhận, trên các văn bản chính thống của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vẫn không thay đổi tỉnh Bình Định, do đó tỉnh Tăng Bạt Hổ tồn tại không được bao lâu. Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược (1945-1954) Tượng đài Chiến thắng Quy Nhơn Bình Định là tỉnh tự do hoàn hoàn, là hậu phương chiến lược trực tiếp của chiến trường khu V, Tây Nguyên, Nam Lào và Đông Bắc Cam-pu-chia. Chín năm kháng chiến gian khổ và anh dũng đó, nhân dân Bình Định dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã góp công, góp sức cùng cả nước đánh thắng thực dân Pháp xâm lược, buộc chúng phải ký Hiệp Định Giơnevơ tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam . Tuy nhiên theo tinh thần Hiệp định này, đất nước ta còn tạm thời chia cắt làm 2 miền : Miền Bắc được giải phóng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào, trong đó có tỉnh Bình Định còn phải chịu dưới ách thống trị của bọn tay sai đế Quốc, chờ tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Từ năm 1989 tỉnh Bình Định được tái lập trở lại từ tỉnh Nghĩa Bình. Từ đó đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng, nhân dân Bình Định đã ra sức xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, có nhiều đổi mới về nếp nghĩ trong phát triển kinh tế, tạo nên sự biến đổi sâu sắc trong đời sống của mỗi người dân. Một cuộc sống mới tốt đẹp ở tương lai: ấm no, hạnh phúc, dân chủ, công bằng, văn minh đã và đang được nhân dân Bình Định cùng với cả nước phấn đấu xây dựng. Trong khi hiệp định Giơnevơ (1954) về Đông Dương ký chưa ráo mực, Đế quốc Mỹ hất cẳng Pháp nhảy vào miền Nam dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm hòng biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ . Chính quyền Ngô Đình Diệm chia miền Nam Việt Nam thành hai miền: Từ Bình Thuận trở vào gọi là Nam phần; từ Bình Thuận trở ra vĩ tuyến 17 gọi là Trung phần. Trung phần lại chia thành hai khu vực, gọi là Trung nguyên Trung phần và cao nguyên Trung phần. Tỉnh Bình Định thuộc Trung nguyên Trung phần và vẫn giữ là một đơn vị hành chính cấp tỉnh như trước đây cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30-4-1975) . Trong suốt 20 năm (1954-1975), thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng về đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc, quân và dân Bình Định đã vượt qua vô vàng hy sinh, gian khổ, chiến đấu anh dũng, kiên cường, bám đất, bám dân góp phần cùng cả nước đánh thắng hoàn toàn Đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng quê hương yêu dấu của mình vào ngày 31/3/1975 . Từ cuối năm 1975 đến năm 1989 tỉnh Bình Định hợp nhất với tỉnh Quảng Ngãi lấy tên là tỉnh Nghĩa Bình. Trong 15 năm hợp nhất nhân dân Bình Định đã cùng với nhân dân Quảng Ngãi ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành cải tạo và phát triển kinh tế-xã hội; giữ vững an ninh quốc phòng, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Chủ tịch UBND tỉnh Vũ Hoàng Hà tại lễ khánh thành Cầu Thị Nại | |
| | | Tran Dinh Can Admin
Tổng số bài gửi : 235 Points : 632 Join date : 18/10/2010 Đến từ : BinhDinh
| Tiêu đề: Kinh Te Xa Hoi Wed 27 Oct - 7:16:00 | |
| Nguồn nhân lực Trường Đại học Quy Nhơn Bình Định có nhiều dân tộc chung sống, đoàn kết trong đấu tranh và xây dựng đất nước. Dân tộc Kinh chiếm 98% so tổng dân số, 3 dân tộc thiểu số chiếm 2% chủ yếu là Ba Na, H're, Chăm ở 113 làng/22 xã các huyện miền núi, trung du. Với tổng dân số 1.561.500 người (năm 2005) phân bố không đều, trong đó thành phố Quy Nhơn cao nhất là 1.195,5 người/km2, thấp nhất là huyện Vân Canh 31,1 người/ km2. Cơ cấu dân số trẻ, dưới 30 tuổi chiếm 62,8% là nguồn cung cấp lao động dồi dào cho các ngành kinh tế. Hiện có 904.300 người trong độ tuổi lao động; 795.700 lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân. Cơ sở hạ tầng Hệ thống giao thông khá đồng bộ. Quốc lộ 1A (qua tỉnh 118 km) và đường sắt quốc gia (qua tỉnh 150 km) chạy xuyên suốt chiều dài Bắc - Nam của tỉnh; cùng với Quốc lộ 1D (dài 33 km), Quốc lộ 19 (qua tỉnh 70 km) nối Cảng Quy Nhơn với bên ngoài thuận lợi. Cảng Quy Nhơn là một trong 10 cảng biển lớn của cả nước có thể đón tàu 3 vạn tấn ra vào cảng an toàn.Sân bay Phù Cát cách thành phố Quy Nhơn 30km về phía Bắc có thể mở thêm nhiều chuyến bay đón hành khách đi và đến Bình Định. Toàn tỉnh có 465 km đường tỉnh lộ, đáng chú ý có tuyến đường ven biển nối từ Nhơn Hội đến Tam Quan tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, khai thác tiềm năng ven biển, hầu hết các xã đều có đường ô tô đến trung tâm. Đã có 100% số thôn trong tỉnh có điện, 98,2% số hộ được dùng điện. Hệ thống bưu điện, bưu cục phủ kín toàn tỉnh, đến năm 2005 bình quân có 66 máy điện thoại/1.000 dân. Trường Đại học Quy Nhơn nằm trên đường An Dương Vương thực hiện đào tạo đa ngành cung cấp đội ngũ cán bộ có trình độ đại học và trên đại học cho khu vực. Trên địa bàn tỉnh có Trường Đại học Quy Nhơn, Trường Đại học Quang Trung, Trường Cao đẳng Sư phạm, Trường Cao đẳng Nghề, 2 trường trung học chuyên nghiệp, 398 trường học phổ thông. Tại tỉnh có 16 bệnh viện với 2.180 giường bệnh, 15 phòng khám, 1 viện điều dưỡng và 157 trạm xá xã; trong đó có Bệnh viện đa khoa tỉnh, Bệnh viện đa khoa thành phố tại Quy Nhơn và 2 bệnh viện đa khoa khu vực tại Phú Phong và Bồng Sơn là những cơ sở khám chữa bệnh cho nhân dân có chất lượng cao. Hạ tầng thương mại, du lịch được xây dựng đang đáp ứng yêu cầu phát triển. Về phát triển kinh tế - xã hội Tháp đôi tại Quy Nhơn Trong những năm qua, kinh tế - xã hội tỉnh Bình Định không ngừng phát triển. Các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội được nâng cao, các công trình hạ tầng kỹ thuật và phúc lợi xã hội được đầu tư phát triển. Kinh tế thời kỳ 2001 - 2005 của tỉnh liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước, tổng sản phẩm địa phương (GDP) năm 2005 đạt 5.609,6 tỷ đồng (giá so sách 1994), gấp 1,54 lần so với năm 2000 và tăng 11,1% so năm 2004. Tốc độ tăng trưởng GDP cả thời kỳ 2001 - 2006 đạt 9%. Trong đó các ngành thuộc khu vực công nghiệp - xây dựng 14%, nông - lâm - ngư nghiệp tăng 5,7% và dịch vụ tăng 10,1%. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 16%/năm. GDP bình quân/người tăng từ 219,7 USD năm 2000 lên 401 USD năm 2005. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, năm 2000 có cơ cấu nông, lâm, ngư nghiệp - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ là 42,2% - 22,8% - 35%, đến năm 2005 có tỷ trọng tương ứng là 36,9% - 28,2% - 34,9%. Giáo dục - đào tạo - dạy nghề phát triển mạnh về cơ sở vật chất, mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo. Công tác xã hội hoá giáo dục được đẩy mạnh, đa dạng hoá các loại hình trường lớp, các loại đào tạo, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập và phát triển nguồn nhân lực. Đến năm học 2005 - 2006 số học sinh hệ mẫu giáo đạt 41.517 em, học sinh phổ thông 348.400 em, kết quả phổ cập tiểu học và xoá mù chữ được duy trì, phổ cập trung học cơ sở hoàn thành năm 2004. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nghề cho người lao động được tăng cường, đến năm 2005 đạt 25% số lao động. Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ. Có 80% số trạm y tế cấp xã có bác sĩ. Đã mở rộng bảo hiểm y tế cho người nghèo, tăng cường hoạt động khám bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi. Công tác y tế dự phòng được đầu tư thường xuyên. Tỷ suất sinh bình quân mỗi năm giảm 0,8 phần nghìn, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 24,5% vào năm 2005. Hoạt động văn hoá thông tin đáp ứng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ của nhân dân, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống được chú trọng. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá được tiếp tục phát triển, 95% địa bàn dân cư được phủ sóng phát thanh và truyền hình. Hoạt động khoa học và công nghệ tập trung vào việc nghiên cứu, ứng dụng nhằm sử dụng có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nhiều tiến bộ khoa học công nghệ được ứng dụng đem lại hiệu quả thiết thực như giống mới, kỹ thuật canh tác phòng trừ dịch, hại tổng hợp, thay đổi mùa vụ, cơ cấu cây trồng. Bước đầu xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ vận động viên thể thao thành tích cao của một số môn có thế mạnh của tỉnh như võ thuật, điền kinh, bơi lội, bóng đá… Các hoạt động xã hội, chăm sóc người có công với nước được coi trọng. Hằng năm giải quyết việc làm cho 2,2 vạn người. Thực hiện tốt chính sách xoá đói giảm nghèo, hộ nghèo giảm bình quân 2%/năm và năm 2005 còn 19,66%. | |
| | | Tran Dinh Can Admin
Tổng số bài gửi : 235 Points : 632 Join date : 18/10/2010 Đến từ : BinhDinh
| Tiêu đề: Văn hoá Bình Định với cái nhìn tương lai Wed 27 Oct - 7:21:36 | |
| Dưới thời khởi nghĩa nông dân Tây Sơn, ba anh em họ Nguyễn là Nguyễn Nhạc,Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ sau khi quét sạch thù trong, giặc ngoài đã xây dựng nền văn hóa Tây Sơn với tư cách như một cuộc cách mạng về văn hóa, trong đó đề cao chữ Nôm mở đường cho văn hóa dân tộc phát triển đi liền với chủ quyền dân tộc. Đầu thế kỷ XX trong dòng thơ văn tiền chiến 1930 – 1945 với Biểu diễn võ Tây Sơn phong trào thơ mới ở Bình Định cũng được đánh giá là một trào lưu sáng tác cùng với những thi hào xuất sắc như: Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Cù Huy Cận… Trải qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, văn hóa Bình Định cũng góp một phần không nhỏ cho sự nghiệp giải phóng quê hương đất nước. Chúng ta không bao giờ quên Ca kịch bài chòi và tuồng Liên khu V đã từng vang lên khắp vùng căn cứ kháng chiến và cả trong vùng địch hậu qua làn sóng phát thanh của Đài Phát thanh Giải phóng và Đài Tiếng nói Việt Nam, cổ vũ và nuôi dưỡng những tâm hồn kháng chiến, đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc v.v. Tháp Dương Long tại Tây Sơn Những nét chấm phá của văn hóa Bình Định đã qua là như vậy nhưng những gì của văn hóa Bình Định cho hôm nay và ngày mai là hết sức quan trọng, cần phải được định ra cho văn hóa một hướng đi phù hợp với quy luật phát triển xã hội, phù hợp với đặc điểm nền kinh tế đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Bởi vì nói đến văn hóa tuy là động lực phát triển kinh tế - xã hội nhưng văn hóa lại phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, cho nên đặt vấn đề văn hóa Bình Định với cái nhìn tương lai thì văn hóa Bình Định cũng chịu sự ảnh hưởng của nền kinh tế tỉnh nhà; vì vậy nhận định văn hóa Bình Định đi tới đâu là hết sức cần thiết. Thực ra, những vấn đề về văn hóa của Bình Định mang tính chất chung nhất đã được định hướng trong các Nghị quyết về văn hóa - văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà gần đây nhất là Nghị quyết Hội nghị lần 5 của Ban chấp hành TW Đảng (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Cụ thể hóa của Nghị quyết này, mới đây UBND tỉnh Bình Định đã ban hành Đề án chiến lược phát triển văn hóa thông tin từ nay đến năm 2010 và hàng loạt Đề án khác phục vụ cho Nghị quyết. Có thể nói các Đề án mới được ban hành là một cái gậy để các nhà làm văn hóa đề ra cho mình một hướng đi cụ thể, thiết thực bảo đảm cho văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển xã hội. Nhìn một cách tổng quan thì văn hóa Bình Định không nằm ngòai định hướng chung của văn hóa Việt Nam hoạt động trong cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Khi đặt vấn đề cụ thể của hướng đi nào để văn hóa Bình Định đi tới tương lai chắc chắn phải dựa vào đặc điểm của vùng miền và thế mạnh Bình Định có. Văn hóa Bình Định muốn có một cuộc bứt phá ngoạn mục thì phải bám sát vào cội rễ của văn hóa truyền thống vốn rất phong phú và đa dạng, bởi đây là cái nền vững chắc nhất. Phát triển văn hóa Bình Định, trước hết có lẽ phải đi từ hệ thống di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh. Nghĩa là phải biết phát huy thế mạnh của các di tích này để khai thác, giới thiệu những giá trị của chúng ra bên ngoài. Theo thống kê chưa đầy đủ, Bình Định hiện nay có 150 điểm di tích và danh thắng đang được quy hoạch. Trong số này, đến cuối năm 2003 có 29 di tích đã được Bộ VHTT xếp hạng, khoảng 50 di tích được UBND tỉnh công nhận, còn lại đang được khảo sát, xây dựng hồ sơ để xác định mức độ giá trị của từng di tích, ứng với cấp nào thì cấp đó công nhận. Các di tích trên địa bàn tỉnh Bình Định phổ biến nhất là các nhóm: di tích về văn hóa Chămpa xưa, di tích về kháng Pháp và Cách mạng, di tích kháng chiến chống Mỹ và di tích thắng cảnh - danh lam. Hát Bộ - loại hình nghệ thuật truyền thống của Bình Định Ngoài hệ thống di tích lịch sử, Bình Định có hệ thống thư viện -tủ sách được xây dựng tới cơ sở xã, phường, thị trấn; trong đó với một thư viện tỉnh có trên 100.000 bản sách, 10 thư viện huyện và hằng trăm thư viện, tủ sách ở cơ sở. Hệ thống nhà văn hóa - câu lạc bộ huyện nào cũng có; 16 đơn vị chiếu bóng, có rạp biểu diễn dành riêng cho sân khấu tuồng v.v. Đây là cơ sở - thiết chế văn hóa để góp phần làm nên văn hóa của người Bình Định trong tương lai. Dòng văn hóa phi vật thể ở Bình Định vô cùng phong phú như: Hoạt động lễ hội, hát bội, nhạc võ Tây Sơn, ca kịch bài chòi, múa hát bá trạo của cư dân miền biển… là những món ăn tinh thần đặc sắc không những đối với nhân dân Bình Định mà nó còn là đặc sản để giới thiệu ra ngoài tỉnh và khách quốc tế. Các lễ hội mang tính chất truyền thống và dân gian nếu được duy trì, phát huy cũng sẽ là những bộ mặt văn hóa tương lai của Bình Định như : Lễ hội chiến thắng Đống Đa, Lễ hội cầu ngư, Lễ hội văn hóa - thể thao miền núi, Lễ hội văn hóa - thể thao miền biển… và vô số các lễ hội giàu tính nhân văn của ba dân tộc thiểu số miền núi: Bana, Chăm, H’re sống trên đất Bình Định là những tiềm ẩn khơi dậy làm giàu và lành mạnh hóa cuộc sống. Và dĩ nhiên các loại hình văn hóa kể trên phải được nâng cao, cải biên cho phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ mới. Văn học dân gian và văn học bác học ở Bình Định cũng là một thế mạnh trong tương lai. Điều đó được chứng minh đội ngũ sáng tác hiện nay ở Bình Định ngày một đông, các lứa tuổi đều có, những năm qua nhiều tác phẩm của họ đạt các giải cao trên nhiều lĩnh vực từ: mĩ thuật, hội họa, thơ, nhạc cho đến nghệ thuật biểu diễn sân khấu truyền thống. Văn học dân gian vẫn còn đây những nghệ nhân, những lớp kế tiếp nối bước ông cha giữ gìn những câu hát đối đáp những miếng biểu diễn tuồng hay, những bài dân ca và hát bài chòi cổ, cùng với những trò vui dân gian trong các lễ hội, những phong tục tập quán tốt đẹp của người Bình Định mãi mãi điểm tô cho bộ mặt văn hóa Bình Định . Văn hóa Bình Định tương lai còn biết tiếp thu những tinh hoa văn hóa của các vùng miền trong cả nước và nhân loại; sở dĩ đề cao việc tiếp thu cái hay, cái đẹp của văn hóa các vùng khác cũng là yêu cầu không thể thiếu ở bất cứ một dòng văn hóa nào khi muốn tồn tại và phát triển. Văn hóa Bình Định có hội nhập với thế giới bên ngoài hay không thì yếu tố tiếp thu, bồi đắp, làm phong phú cho mình là rất quan trọng. Trong thế giới của thời kỳ đại công nghiệp, văn hóa Bình Định không những vừa giữ cho mình một nét riêng như Huế có ca múa Cung đình, đồng bằng Bắc bộ có chèo, Nam bộ có cải lương, Tây nguyên đàn T’rưng v.v. mà còn có những nét hòa đồng, riêng biệt nhưng không khác biệt hoặc theo cách nói hòa nhập nhưng không thể hòa tan. Tuy nhiên, để có một vùng văn hóa phát triển, Bình Định cũng sẽ gặp nhiều khó khăn thử thách. Đó là những mặt trái của cơ chế thị trường, một khi phải hạn chế những tư tưởng đề cao đồng tiền và danh lợi hoặc thương mại hóa văn hóa. Những khó khăn thử thách này, thực tế những năm vừa qua, Bình Định cũng đã gặp phải và đang cố gắng hạn chế không để chúng làm cản trở trong sự phát triển chung của văn hóa Bình Định. Ngày nay với các chính sách chiêu hiền đãi sĩ của UBND tỉnh, tầng lớp trí thức, đội ngũ làm công tác VHTT ở Bình Định ngày một trưởng thành. Đây là nguồn lực hết sức quan trọng để tạo nên vóc dáng văn hóa Bình Định trong tương lai. Đó sẽ là động lực thúc đẩy một cách trực tiếp cùng cả nước tiến tới xây dựng một nền văn hóa Việt Nam, tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, chuẩn bị cho mình hành trang tốt nhất để đi vào thế kỷ XXI với những gì có thể. Di tích Thành Hoàng đế tại huyện An Nhơn | |
| | | Tran Dinh Can Admin
Tổng số bài gửi : 235 Points : 632 Join date : 18/10/2010 Đến từ : BinhDinh
| Tiêu đề: SỐ LIỆU THỐNG KÊ Wed 27 Oct - 7:26:58 | |
| MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ - XÃ HỘI CHỦ YẾU Đơn vị 1995 2000 2005 2006 2007 2008 1. Dân số trung bình 1000 người 1.394,3 1.485,6 1.556,9 1566,0 1.578,9 1595,2 TĐ: Dân số trong độ tuổi lao động " 713,9 793,7 901,0 916,1 ....... 2. Tỷ lệ tăngdân số %o 23,9 14,5 12,2 11,5 10,9 11,9 3. Lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành KT 1000 người ... ... 795,7 808,8 822,1 838,4 4. Tổng thu NSNN trên địa bàn Tỷ đồng 392,7 593,3 1.267,8 1.618,0 2.074,6 2574,5 5. Tổng chi ngân sách địa phương Tỷ đồng 212,5 894,6 1.874,3 2.251,6 2.916,0 3.949,6 6. Vốn đầu tư phát triển trên địa bàn " ... ... 4.100 5.192 6.365 8000 Trong đó: Địa phương quản lý " ... ... 3.823 4.818 6117 7680 7. Tổng sản phẩm trong tỉnh (giá trị thực tế) " 2.717,7 4591,9 10.293,7 12.223,5 14.877,0 20.792,0 8. Tổng sản phẩm trong tỉnh (giá SS 1994) " 2.388,7 3661,3 5.609,6 6.280,5 7.074 7.861,7 9. Giá trị sản xuất nông nghiệp (giá trị cố định 1994) " 1.346,7 1821,6 2.354,9 2.614,8 2.690,6 2.904,1 10. Giá trị SXCN trên địa bàn (giá trị cố định) " 521,1 1687,9 3.318,1 3.075,7 4.730 Trong đó: Giá trị SXCN ĐP " 438,9 1.466,1 2.692,0 3.457,3 .... 11. S.lượng lương thực có hạt 1000 tấn 405,8 532,5 561,0 644,5 617,9 12. Tổng giá trị xuất khẩu 1.000 USD 21.472 103883 214.924 243.800 327.000 13. Học sinh phổ thông 1000 người 283,3 347,7 348,4 343,4 331,1 14. Số giường bệnh Giường 1.950 2224 2.230 2.240 2.390 15. Cán bộ ngành y Người 1.749 2400 2.797 2.784 3.130 Trong đó: Y, bác sỹ " 991 1275 1.374 1.392 1450 Diện tích, dân số và đơn vị hành chính năm 2008 Số xã Số phuờng, thị trấn Diện tích (km2) Dân số (100 người) Mật độ dân số (nguời/km2) Tổng số 129 30 6039 1578,9 261,5 1. Thành Phố Quy Nhơn 5 16 286 271,2 948,3 2. Huyện An Lão 9 1 692 27,2 39,3 3. Huyện Hoài Nhơn 15 2 414 228,0 550,7 4. Huyện Hoài Ân 14 1 745 98,1 131,7 5. Huyện Phù Mỹ 17 2 550 192,8 350,5 6. Huyện Vĩnh Thạnh 8 1 722 29,8 41,3 7. Huyện Tây Sơn 14 1 690 139,2 201,7 8. Huyện Phù Cát 17 1 680 199,0 292,6 9. Huyện An Nhơn 13 2 243 193,6 796,7 10. Huyện Tuy Phước 11 2 217 190,0 875,6 11. Huyện Vân Canh 6 1 800 26,3 32,9 * Khí hậu Số liệu cơ bản về khí hậu (năm 2008) Nhiệt độ trung bình cả năm: 28,60 Nhiệt độ trung bình cao nhất (tháng 6 và tháng 7): 300 Nhiệt độ trung bình thấp nhất (tháng 1): 23,20 Độ ẩm trung bình cả năm: 79% Độ ẩm trung bình thấp nhất (tháng : 73% Độ ẩm trung bình cao nhất (tháng 10): 85% Lượng mưa trung bình cả năm: 2.595,6 mm Lượng mưa trung bình cao nhất (tháng 11): 851,1 mm Lượng mưa trung bình thấp nhất (tháng 2): 26,2 mm Tổng số giờ nắng trong năm: 2.288,0 giờ * Các đơn vị hành chính TỈNH BÌNH ĐỊNH (Tổng số xã phường, thị trấn: 159; xã: 129, phường: 16; thị trấn: 14) (Total number of communes, subdistricts, subtowns: 157) Mã số Code Tên đơn vị hành chính Name of the Administrative Divisions 540 Thành phố Quy Nhơn 21550 Phường Nhơn Bình 21553 Phường Nhơn Phú 21556 Phường Đống Đa 21559 Phường Trần Quang Diệu 21562 Phường Hải Cảng 21565 Phường Quang Trung 21568 Phường Thị Nại 21571 Phường Lê Hồng Phong 21574 Phường Trần Hưng Đạo 21577 Phường Ngô Mây 21580 Phường Lý Thường Kiệt 21583 Phường Lê Lợi 21586 Phường Trần Phú 21589 Phường Bùi Thị Xuân 21592 Phường Nguyễn Văn Cừ 21959 Phường Ghềnh Ráng 21598 Xã Nhơn Lý 21601 Xã Nhơn Hội 21604 Xã Nhơn Hải 21607 Xã Nhơn Châu 21991 Xã Phước Mỹ 542 Huyện An Lão 21609 Thị trấn An Lão 21610 Xã An Hưng 21613 Xã An Trung 21616 Xã An Dũng 21619 Xã An Vinh 21622 Xã An Toàn 21625 Xã An Tân 21628 Xã An Hoà 21631 Xã An Quang 21634 Xã An Nghĩa 543 Huyện Hoài Nhơn 21637 Thị trấn Tam Quan 21640 Thị trấn Bồng Sơn 21643 Xã Hoài Sơn 21646 Xã Hoài Châu Bắc 21649 Xã Hoài Châu 21652 Xã Hoài Phú 21655 Xã Tam Quan Bắc 21658 Xã Tam Quan Nam 21661 Xã Hoài Hảo 21664 Xã Hoài Thanh Tây 21667 Xã Hoài Thanh 21670 Xã Hoài Hương 21673 Xã Hoài Tân 21676 Xã Hoài Hải 21679 Xã Hoài Xuân 21682 Xã Hoài Mỹ 21685 Xã Hoài Đức 544 Huyện Hoài Ân 21688 Thị trấn Tăng Bạt Hổ 21690 Xã Ân Hảo Tây 21691 Xã Ân Hảo Đông 21694 Xã Ân Sơn 21697 Xã Ân Mỹ 21700 Xã Dak Mang 21703 Xã Ân tín 21706 Xã Ân Thạnh 21709 Xã Ân Phong 21712 Xã Ân Đức 21715 Xã Ân Hữu 21718 Xã Bok Tới 21721 Xã Ân Tường Tây 21724 Xã Ân Tường Đông 21727 Xã Ân Nghĩa 545 Huyện Phù Mỹ 21730 Thị Trấn Phù Mỹ 21733 Thị Trấn Bình Dương 21736 Xã Mỹ Đức 21739 Xã Mỹ Châu 21742 Xã Mỹ Thắng 21745 Xã Mỹ Lộc 21748 Xã Mỹ Lợi 21751 Xã Mỹ An 21754 Xã Mỹ Phong 21757 Xã Mỹ Trinh 21760 Xã Mỹ Thọ 21763 Xã Mỹ Hoà 21766 Xã Mỹ Thành 21769 Xã Mỹ Chánh 21772 Xã Mỹ Quang 21775 Xã Mỹ Hiệp 21778 Xã Mỹ Tài 21781 Xã Mỹ Cát 21784 Xã Mỹ Chánh Tây 546 Huyện Vĩnh Thạnh 21786 Thị trấn Vĩnh Thạnh 21787 Xã Vĩnh Sơn 21790 Xã Vĩnh Kim 21796 Xã Vĩnh Hiệp 21799 Xã Vĩnh Hảo 21801 Xã Vĩnh Hòa 21802 Xã Vĩnh Thịnh 21804 Xã Vĩnh Thuận 21805 Xã Vĩnh Quang 547 Huyện Tấy Sơn 21808 Thị Trấn Phú Phong 21811 Xã Bình Tân 21814 Xã Tây Thuận 21817 Xã Bình Thuận 21820 Xã Tây Giang 21823 Xã Bình Thành 21826 Xã Tây An 21829 Xã Bình Hoà 21832 Xã Tây Bình 21835 Xã Bình Tường 21838 Xã Tây Vinh 21841 Xã Vĩnh An 21844 Xã Tây Xuân 21847 Xã Bình Nghi 21850 Xã Tây Phú 548 Huyện Phù Cát 21853 Thị trấn Ngô Mây 21856 Xã Cát Sơn 21859 Xã Cát Minh 21862 Xã Cát Khánh 21865 Xã Cát Tài 21868 Xã Cát Lâm 21871 Xã Cát Hanh 21874 Xã Cát Thành 21877 Xã Cát Trinh 21880 Xã Cát Hải 21883 Xã Cát Hiệp 21886 Xã Cát Nhơn 21889 Xã Cát Hưng 21892 Xã Cát Tường 21895 Xã Cát Tân 21898 Xã Cát Tiến 21901 Xã Cát Thắng 21904 Xã Cát Chánh 549 Huyện An Nhơn 21907 Thị trấn Bình Định 21910 Thị trấn Đập Đá 21913 Xã Nhơn Mỹ 21916 Xã Nhơn Thành 21919 Xã Nhơn Hạnh 21922 Xã Nhơn Hậu 21925 Xã Nhơn Phong 21928 Xã Nhơn An 21931 Xã Nhơn Phúc 21934 Xã Nhơn Hưng 21937 Xã Nhơn Khánh 21940 Xã Nhơn Lộc 21943 Xã Nhơn Hoà 21946 Xã Nhơn Tân 21949 Xã Nhơn Thọ 550 Huyện Tuy Phước 21952 Thị trấn Tuy Phước 21955 Thị trấn Diêu Trì 21958 Xã Phước Thắng 21961 Xã Phước Hưng 21964 Xã Phước Quang 21967 Xã Phước Hoà 21970 Xã Phước Sơn 21973 Xã Phước Hiệp 21976 Xã Phước Lộc 21979 Xã Phước Nghĩa 21982 Xã Phước Thuận 21985 Xã Phước An 21988 Xã Phước Thành 551 Huyện Vân Canh 21994 Thị trấn Vân Canh 21997 Xã Canh Liên 22000 Xã Canh Hiệp 22003 Xã Canh Vinh 22006 Xã Canh Hiển 22009 Xã Canh Thuận 22012 Xã Canh Hoà SỐ LIỆU CƠ BẢN VỀ DÂN SỐ VÀ LAO ĐỘNG (năm 2008) 1- Dân số trung bình: 1.595.200 người Phân theo giới tính: Nam: 775.500 người Nữ: 819.700 người Phân theo khu vực: Thành thị: 424.100 người Nông thôn: 1.171.100 người Phân theo địa bàn: TP Quy Nhơn: 271.200 người Huyện An Lão: 27.200 người Huyện Hoài Ân : 98.100 người Huyện Hoài Nhơn: 228.000 người Huyện Phù Mỹ: 192.800 người Huyện Phù Cát: 199.000 người Huyện Vĩnh Thạnh: 29.800 người Huyện Tây Sơn: 139.200 người Huyện An Nhơn: 193.600 người Huyện Tuy Phước: 190.000 người Huyện Vân Canh: 26.300 người 2- Lao động đang làm việc: 838.400 người 3- Tỷ lệ: 0/00 Tỷ lệ sinh: 17,0 Tỷ lệ chết: 5,1 Tỷ lệ tăng tự nhiên: 11,9 | |
| | | Tran Dinh Can Admin
Tổng số bài gửi : 235 Points : 632 Join date : 18/10/2010 Đến từ : BinhDinh
| Tiêu đề: Âm Thực Wed 27 Oct - 7:30:40 | |
| Nem chợ Huyện Ai về Vinh Thạnh quê em
Ăn nem chợ Huyện, xem đêm hát tuồngThôn Vinh Thạnh ngày xưa là huyện lỵ Tuy Phước. Ở đây trường Vinh Thạnh được xây dựng sớm nhất huyện nhà. Cạnh trường còn cửa Lý Môn - có lẽ là phủ đường, về phía Tây kề đó là chợ Huyện buôn bán sầm uất. Đặc biệt nhất là hát tuồng - quê hương của vị hậu tổ tuồng Đào Tấn. Hễ có hội là có hát. Ngoài thú xem tuồng còn có thú ăn uống. Món ăn tuy nhiều nhưng nổi bật nhất là "nem chợ Huyện", nem nổi tiếng từ xưa cho đến bây giờ. Có thể bảo rằng, nem là tinh hoa của thú ẩm thực, là đặc sản. Ngày nay nơi đây còn có một số hàng, quán mang được sắc thái ngày xưa. Ngày còn bé, tôi đã vài lần được ăn nem ở đây. Nem ngon tuyệt, cái ngon còn giữ mãi trong ký ức. Lớn lên tôi lại tìm đến như người đi tìm kỷ niệm. Dường như nem ngày nay không thơm ngon như ngày xưa. Phải chăng mình đã quen với những hương vị mới khiến cảm giác không còn bén nhạy như xưa chăng? Tuy nhiên những khách phương xa đến đây thưởng thức món đặc sản này đều tấm tắc khen cái hương vị rất riêng của nem chợ Huyện. Theo các nhà sản xuất thì nem ngon do cách chế biến một phần nhưng yếu tố chính vẫn là thịt. Thịt được chọn khá kỹ. Đó là thịt heo cỏ. Heo cỏ nhỏ con, lông và da màu đen, xương nhỏ. Heo nuôi từ 6 đến 8 tháng, mát tay lắm heo cũng chừng sáu chục ký. Thịt săn, nhiều nạc, màu đỏ sẫm. Một con heo năm sáu chục ký chỉ lấy độ mươi lăm ký nạc là cùng. Đó là thịt lọc, lấy ở bốn đùi. Những phần thịt khác đem bán ở chợ giá rẻ hơn nhiều. Cách chế biến Thịt được cắt theo chiều ngang sớ thịt chừng 3 phân rồi mới thái nhỏ. Thịt để ráo nước rồi mới cho vào cối quét. Cẩn thận hơn là cối phải là thứ cối xứ Quảng, vừa trơn láng vừa sâu lòng. Vài nơi dùng cối gỗ nhưng cối gỗ thường bị nứt vỡ. Cối đá thường dùng là đá Non Nước màu trắng có vân đen, mịn láng. Thợ làm nem là những người trai lực lưỡng. Muốn thịt được nhuyễn, dai giòn, người thợ phải quết liên tục, không có quãng thời gian ngừng tay lâu. Nếu mỏi phải thay người khác. Chỉ dừng lại khi thịt đã "chín". Thời gian quết chừng một lếu nhang. Vì lẽ ấy có người cho rằng thắp nhang là để cầu nguyện. Một người quết, một người trông chừng, đôi bàn tay được thoa mỡ hay nước muối, tém những mẩu thịt trồi ra ngoài. Mỗi cối thịt chừng vài ký. Trong lúc quết họ còn gia thêm đường và muối theo một tỉ lệ chính xác. Khi thịt đã chín, nhuyễn người ta gia thêm tiêu hạt và da heo đã xắt nhỏ như con bún, hoặc như hạt lựu. Nem tươi Nem tươi là nem được nướng ăn ngay, họ phải gia thêm tỏi giã nhỏ để tăng hương vị. Thịt phải vắt thành viên hình bầu dục cỡ bằng ngón tay cái. Họ xếp vào tô lớn. Khi ăn, nem được xiên qua một cái que tre, cứ mười chiếc một. Xâu nem được đặt trên lửa liu riu, trở qua lại nhiều lần, cứ mỗi lần trở lại thoa thêm mỡ nước để nem không khô mà lại tăng vị béo. Nem chín, mùi thơm ngào ngạt lan tỏa khiêu khích khứu giác, vị giác khiến ta không cầm được nước bọt. Thưởng thức Những xâu nem vàng vàng, nâu hồng bốc khói thơm lựng được dọn lên với rau mùi. Không cần nhiều rau vì nếu rau nhiều quá làm loãng hương vị nem. Các loại rau thơm như tía tô, rau răm kèm với chuối, khế xắt nhỏ và dưa leo. Tùy theo sở thích có người chỉ ăn độc một thứ nem để tận hưởng hương vị của thịt, có người lại bảo phải có rau, rau vừa nâng lại vừa thêm hương vị. Có người lại thích cuốn với bánh tráng mỏng để thưởng thức cái dai, cái giòn của đặc sản này. Đặc biệt là nước chấm, tùy khẩu vị nên chủ quán luôn chuẩn bị đủ hai loại là nước tương và nước mắm. Nước mắm phải là loại nước mắm nhỉ Gò Bồi được pha loãng với tương ớt. Tương ớt không cay lắm. Ai thích ăn cay thì có ớt trái. Loại nước chấm được nhiều người ưa thích là gồm nước mắm pha loãng với đậu phụng giã nhỏ gia thêm đường và ớt tỏi khiến nước chấm quanh quánh ngọt đậm đà. Nước chấm pha càng khéo càng nâng hương vị của nem khiến khẩu vị người ăn luôn bị kích thích. Nem chợ Huyện vừa ngọt lại vừa béo, đã dai mà lại giòn, đủ các vị mặn, ngọt, dai, giòn, thơm béo nên ăn không biết chán. Lại nữa, nem hoàn toàn bằng thịt nạc nên ta có thể ăn no mà không sợ hàn. Cứ một mẩu nem tợp một ngụm rượu Bầu Đá thơm, cay, nồng thì không gì sảng khoái bằng. Chủ quán lại rất sành về tâm lý khách hàng nên những bàn ăn thường được dọn ở ngoài vườn đầy hoa lá. Vừa ăn vừa thưởng thức cái không khí thôn quê trong lành. Phải chăng đó là nghệ thuật? Nem chua Nem tươi ăn liền, ai muốn để dành hoặc làm quà cho người thân thì mua nem chua. Nem chua là nem tươi được gói bằng lá vông, bên ngoài bọc lá chuối. Lá vông nem màu xanh hơi nhạt, lá không lớn như vông đồng. Để có lá gói, cây vông nem được trồng thành hàng rào, khi cần là có ngay. Ngày nay người ta dùng lá ổi thay cho lá vông nem. Nem gói bằng lá vông ngon và dịu hơn. Sau khi gói được ba ngày là dùng được. Nem chua ăn với tỏi. Tỏi vừa thơm lại vừa sát khuẩn. Nem chua là món dưa cay tuyệt vời. Nem là đặc sản của chợ Huyện, Tuy Phước. Ngày nay, nó vẫn là tinh hoa của các món ăn Bình Định. | |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Điều kiện tự nhiên | |
| |
| | | | Điều kiện tự nhiên | |
|
Trang 1 trong tổng số 1 trang | |
Similar topics | |
|
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |
|